Xin được chia sẻ cùng các bạn bài viết:
Vài
cảm nhận khi đọc
“TỪ VẦNG TRĂNG MƯỜI SÁU” của Cao Xuyên.*
Tôi đã từng
là một “nông phu”, vì vậy đọc tập thơ của một “nông dân”, tôi thấy một chút gần
gũi. Dù vậy qua tập thơ này tôi phát hiện chất “Sỹ phu” ngời lên trong từng ý
thơ…Và tôi có 3 nguyên tắc thầm nhăc chính mình trong câu chuyện thơ này:
Một là: không xoa bóp tác giả như
những cách thường gặp đâu đó trên tạp chí, sách báo lâu nay vì như thế với tính
cách “sỹ phu” tác giả sẽ không cho phép, nên tôi quyết không như vậy, không bị
câu thúc bởi bất cứ lý do gì, vì bợ đở phỉnh nịnh không khác một kẻ xài bạc giả
-như một tác giả nào đó đã nói.
Hai: không khen tác phẩm, bởi nhà
thơ Trụ Vũ đã khen trong lời giới thiệu ở đầu sách, một lẻ khác tôi xin dẫn ra
đây lời của một thi sỹ đời Tống-Lý Chi Lai” Ở đời có 3 việc đáng tiếc: Thứ nhất
lớp thanh niên ưu tú bị hư hỏng bởi một chế độ giáo dục sai lầm; thứ 2 những
cánh trà ngon bị hao phí quá nhiều vì những bàn tay bất tài vày vò; thứ 3 :
Những tuyệt tác bị mất giá trị bởi
những kẻ phàm phu tục tử tán thưởng…Mà tôi thì cũng chẳng khác gì đám phàm phu
tục tử kia nên không dám khen láo.
Ba là phê bình ( ở một nghĩa nào
đó) tôi không đủ vốn liếng chữ nghĩa và kỹ thuật để chẻ sợi tóc làm tư làm tám
như các nhà chuyên môn vì vậy coi như tôi không làm điều này…
Ở đây tôi chỉ nói lên vài chút đồng cảm với tác giả trong
một số tứ thơ mà thôi. Chắc trong chúng ta không ít người đã đọc: “ Ngã hữu
thốn tâm vô dữ ngữ…”( ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai) của cụ Tiên
Điền, ở đây Cao Xuyên cũng thế không biết ngỏ cùng ai nên “ngỏ” bằng thơ- tôi
nghĩ như thế, nhưng như mọi người đều biết ngoài chức năng “ minh đạo, tải
đạo…”Thơ còn có một chức năng rất dễ thương là làm cầu…thật vậy nhà thơ Trần
Ninh Hồ đã viết như thế này:
“ Thơ là chiếc cầu bơ vơ
“ Mà nghìn năm vẩn ngóng chờ người
sang…”
Theo tôi nghĩ nó đúng với rất nhiều trường hợp là những bài
thơ được sinh ra bởi những nhà thơ chân chính hay nói một cách hoa mỹ là “ có
kim bản vị..”Thật vậy các tác phẩm đều muốn tận hiến, đều muốn làm một chiếc
cầu nối liền đôi bờ thương mến giữa thơ - người thơ và người đọc thơ, người thơ
luôn mong ngóng có người đi sang, được phục vụ vô điều kiện, ôi những bài thơ,
những người thơ thật đáng yêu biết bao!, khi mỗi câu thơ là tâm tình hiến dâng
( Thơ Tagore) và tôi nghĩ Cao Xuyên cũng không ngoại lệ -muốn làm chiếc cầu nối đôi bờ đơn chiếc. Trong tập “ Từ Vầng
trăng mười sáu” dễ thương này ta có thể đọc xong trong bao lâu là tùy mỗi
người, có thể đọc xong tập thơ trong vài chục phút, vài tiếng, vài ngày …hay
vài tháng, nói theo từ ngữ chuyên môn là trong nó có chứa một hàm lượng thơ lớn
và một khía cạnh nào đó nó cũng không dành cho đám đông, vì nó thường có double
code (song mã), về hình thức cấu trúc bốn(4) câu có lẻ không mới so với thơ
truyền thống, nhưng nội hàm nếu qui chiếu với trào lưu “hậu hiện đại” nó vẩn có
phần…
Ta thử đọc một số bài trong 81 bài 4 câu:
-Giọt mồ hôi An Tiêm
Thắng trùng trùng bão
tố
Giọt mồ hôi An Tiêm
Nhịp cầu dưa hấu đỏ.
Thật vậy giọt mồ hôi mặn chát của gã nông phu An Tiêm, hay
giọt mồ hôi chát mặn của Hoàng tử An Tiêm khuất phục trùng trùng bão tố…hay
chiến thắng chính mình để những quả dưa “xanh vỏ đỏ lòng” làm nhịp cầu thơm
thảo nối đôi bờ tin yêu thương mến.
Thơ với ai đó có thể là một phương tiện hoặc họ đặt để cho
thơ một cứu cánh nào đó, nhưng với Cao Xuyên tôi nghĩ trong đời sống của anh và
từ “ Vầng trăng 16” không ít lần”ngả lòng” anh phải vịn câu thơ mà đứng dậy (
Thơ Phùng Quán), song ta vẩn thấy toát lên cái lạc quan nhi nhiên của tác giả:
“ Ông nông dân thi sỹ.
Ngồi viết bài thơ tình
Chữ sặc mùi rơm rạ
Mà sao hồn
long lanh.”
Như thể ta thấy tác giả không dụng công làm thơ vì thiên
nhiên đã là thơ rồi:
“Sẳn bài
ca chim hót
Sẳn làn hương hoa ngát
Sẳn niềm yêu tôi khóc
Và thế giới đăng trình”
Đôi khi ta có cảm giác Cao Xuyên lấy thơ ra từ túi áo ngực
trái, hoặc lấy ra tự đất trời không chút dụng công:
” Những đốm lữa trên cành
Hoa lựu gởi về anh
Ồ chùm thơ nắng Hạ
Thơm thảo chút duyên lành.”
Hoặc:
“ Cành khô trắng cánh cò
Chiều sông lạnh câu hò
Bác tiều phu xuống núi
Thế là thành thơ cho.”
Và ở đây ta thấy được một nông thôn Việt Nam dầy tính ảnh viện và tính thơ:
“Sương lưng lưng bờ dậu
Chiều tàn trên đọt cau
Dáng gầy cô thôn nữ
-về muộn tóc cài sao”, thật là
một khuôn hình đẹp và sang trọng biết bao, một khuôn hình mà nhà chụp ảnh nào
cũng ao ước. Từ ngạc nhiên này đến cái dễ thương khác…nhưng cũng rất “triệt
nghĩa” Thiền:
“ Quì gối giữa Phật đường
Lạy
Ông Phật dễ thương
Như
ngàn năm vẩn lạy,
Mùi
hoa cau trong vườn.”. Với người thơ, ông Phật – Vị Đạo sư tót vời của cõi
Trời - Người kia( Theo thế giới quan Phật giáo), thực sự là vị cha lành chung
bốn loại ( Hóa sanh, thai sanh, noãn sanh và thấp sanh)…và đức Phật gần gũi
biết bao nhiêu, tự nhiên như mùi hoa cau trong vườn, tác giả đã vượt qua biên
kiến tôn giáo, ý thức hệ…:
“ Em là con Thiên Chúa
Anh là con Phật Đà
Mình
kết hôn đi nhé
Phật-Chúa
thành sui gia.”, cũng ở đây mỗi người gặp lại chính mình trong thơ Cao
Xuyên hình ảnh thân thuộc xưa cũ và thoáng chút đạo vị:
“
Ngồi đóng đinh quán cũ
Phố
phơi đầy xác Thu
Guốc
phơi dòn kỹ niệm
Thoáng ba ngàn kỳ khu”
Hoặc:
“Tiền kiếp nào xa xuôi
Em
về trả nợ tôi
Cái
nợ tình lắt léo
Trả
là vay mất rồi.”
Như bao nhiêu người Thơ khác, Cao xuyên cũng dành một thời
lượng lớn cho lao động thơ, suy tư thơ về tình yêu lứa đôi, thoạt đọc ta sẽ bật
cười cho sự dối lòng đáng yêu này”
“ Chẳng có ai thất tình
Tình yêu làm sao mất “
Và Cao Xuyên lại tự dỗ dành mình:
“Nó ẩn trong tim mình
Để nuôi bền nhịp đập”. Mà đúng vậy những
thứ người đời cho là “được” và “mất” đó chỉ là sự đắp đổi và tình yêu chân
thành sẽ lặn sâu vào tim mình làm cho ta vững vàng hơn, nuôi bền trong ta tình
yêu cuộc sống…
Ở một góc
khác chúng ta gặp trong thơ Cao Xuyên sự bùng cháy thôi thúc còn ẩn chứa trong
trái tim mình câu hỏi:- Ta về đâu?!
“ Hai mươi năm đất cũ
Chìm trong chuyện đời thường
Thoáng EM về một tối
Bỗng thấy mình- Tha hương”, đại từ EM ở
đây là một thứ Double code rất thú vị… Tuy nhiên ta thấy tác giả cũng điêu linh
như bao đôi lứa khác”
“ Hạt lệ thằng chăn trâu
Rơi xuống thành mưa ngâu
Giờ đã là tháng bảy
Mưa đầy trời – Em đâu?”
Hoặc:
“
Có cơn mưa trái mùa
Rạc rài qua phố nhỏ
Có cuộc tình trái gió
Khiến lòng ai trở trời”
Hay:
“ Cô sơn nữ vai gầy
Gùi sương hồng xuống phố
Má cô tương ánh hồng
Sõi ven đường nín thở”
Sõi bên dường nín thở
hay người thơ nín thở ?.
Qua 81 bài
thơ, tác giả đặc biệt dành sự cảm thông và kính trọng cho những “mẫu thân”-(chữ
của thi sỹ Bùi Giáng). Người phụ nữ qua thơ anh là sự kính trọng, trân trọng,
cảm thông và yêu thương…, những người ấy là Mẹ, là Chị, là Vợ, là người Yêu, là
những người Em mà Cao Xuyên thương yêu
quí trọng thật lòng chứ không phải chỉ bằng khẩu hiệu của những ngày lể về phụ
nữ. Tác giả thấu thị được sự yêu thương vô bờ của những người Mẹ Việt Nam đầy thương
kính trong tình tự dân tộc không biên kiến về ý thức hệ qua chiến tranh:
“ Ngoài kia chiều tím ngắt
Mẹ thắp hương bàn thờ
Đứa nón sắt – nón cối
Thêm một ngày bơ vơ.” Mẹ lại một lần nữa
lo cho linh hồn những đứa con của mình bơ vơ, mà không biết là chính mình đang
bơ vơ vì những đứa con của 2 chiến tuyến đã mất đi vì chiến tranh…và Cao Xuyên cũng cho
chúng ta thấy cái vỹ đại của Mẹ ở một góc khác:
“ Chỉ một túp chùa cỏ
Đuốc Tuệ làm linh thiêng
Chỉ một vành nôi nhỏ
MẸ cho con Thiên đường.”. Ôi!
Với tình yêu rộng lớn, Mẹ trở thành người có pháp thuật và quyền thuật dễ
thương…
Thuở còn nằm nôi ( dụng
cụ bằng tre này đã mất dần trong thế kỷ 21) ai trong chúng ta không nghe
câu ca Mẹ hát: “ Đói lòng ăn nữa trái
sim, uống lưng bát nước đi tìm người thương…”và hình ảnh này lại một lần
nữa Cao Xuyên đã đưa chúng ta tới một khung trời thật cảm động khiến ta nín thở
vì xúc động bởi sự chân thành:
“ Lại về đồi sim cũ
Nữa trái cho no thèm
Nữa trái đặt lên mộ
Dâng hồn em khôn thiêng” Ở đây ta thấy bóng
dáng của nhà thơ Hữu Loan, với đồi sim cũ và người vợ vắn số..có thể Cao Xuyên
thay lời Hữu Loan chăng…?
Lẫn trong những xúc cảm lãng mạng, ta còn nhận thấy ý thức
công dân hay ý thức của một “ sỹ phu” trong tác giả: nhất là với những những
cuộc đời luân lạc bất hạnh, Cao Xuyên dành cho họ sự cảm thông rất mực:
“
Lấy Hiếu để làm trinh
Kiều ơi! Em đã chọn
Mười lăm năm điêu linh
Đóa ưu đàm nở rạng”
( Theo truyền thuyết
Phật Giáo: hoa Ưu đàm ba ngàn năm mới nở một lần)
Và:
“ Nguyễn Du đưa em về
Em bây giờ rất Việt
Lấp
lánh hồn sao Khuê…”
Hoặc người phụ nữ ở bến Tầm Dương của xứ Trung Hoa xưa cũ
kia:
“ Trong thinh lặng hồn mình
Bỗng cồn lên tiếng sóng
Tiếng xé lụa Tầm Dương
Nghìn xưa còn đồng vọng”
Hay những thân phận hồng nhan đa truân ở thế kỹ 21 của xứ sở
mình:
“ Vứt em vào luân lạc
Chưa kịp dấu yêu đầu
Thương cỏ đồng hoa nội
Son phấn- hãi hùng đau…”
Xuyên suốt
81 bài thơ, một pháp số mà có lẽ tác giả đã dụng công không ít…ta còn thấy hình
ảnh hoa cau như một loại quốc hoa tượng trưng cho sự gắn kết thủy chung thân
thuôc với đại đa số người Việt Nam
mà anh hay nhắc tới: “Như ngàn năm vẩn
lạy. Mùi hoa cau trong vườn.” hay “
Chiều tàn trên đọt cau…”. Đây có lẽ là một ám ảnh lớn của tác giả?.
Xưa nay hình
như các tác giả lớn thường cố gắng chỉ ra cái “thường” và “ vô thường” của nhân
sinh, theo như nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thì: - Nghệ thuật nào cũng vậy, nó sẽ
chẳng là gì nếu nó không góp phần truyền đến con người ta sự sống đang sôi động
ngoài kia về cái “đang là” buộc họ tìm đến ý nghĩa của cuộc sống đang sôi động
đó, để xác định vị trí của mình và bật lên câu hỏi: “ Ta là ai?...
Qua : Từ
vầng trăng mười sáu dù là tụng
ca, bi ca, hay bình ca…ta đều thấy mầm sống mạnh mẽ nhú lên từ cay nghiệt cuộc
đời, và về đâu? Luôn ẩn chứa giữa 2
giòng chữ::
“ Khô lạnh như ngọn giáo
Tháp chàm vươn lên trời
Hồn chàm vươn đá sõi
Hoa xương rồng nở tươi”
Hoặc:
“ Tiền kiếp nào xa xuôi
Em
về trả nợ tôi
Cái nợ
tình lắt léo
Trả là vay mất rồi”
Và:
“
Kẻ đến còn ngập ngừng
Người đi chừng tiếc nuối
Tình chia ngã ba sông
Con đò nào chết đuối”
Hay:
“Từ tiếng khóc chào đời
Đến
nấm mộ im hơi
Ba vạn
sáu dâu biển
Thơ
mãi là thơ thôi”
Thơ chỉ mãi là thơ thôi, và chúng ta cứ đuổi mãi đến vô
cùng…có chăng …mua vui cũng được một vài
trống canh( Kiều-Nguyễn Du). Tác giả lại dùng đại từ ngôi thứ hai: EM để
xâu chuỗi suy tư mình :
“Lệ nồng mặn em ơi!
Đêm đêm lần tràng lệ
Tụng câu thơ nụ cười
Và sẽ chẳng là gì nếu như sự tận hiến của người thơ không
xao động một chút trên mặt hồ yên lặng của sự kiêu ngạo và vô tâm:
“Coi
như là trớt quớt
Bài thơ viết bao đêm
Bao lửa lòng đã đốt
Chẳng nhen hồng
má em.”
Với góc nhìn của một độc giả “sính”
thơ, ghi ra vài cảm nhận, dù sai dù đúng thì cũng là tấc lòng dù tấc lòng cạn
cợt không thấu đáo bao nhiêu sự đời, sự người, sự thơ…! Xin cám ơn tác giả đã
cho tôi được đọc một tập thơ gợi mở
nhiều chiều kích cuộc sống và sang trọng
(không phải sang trọng về hìn h thức)
BR-VT, Trọng Xuân Nhâm Thìn 2012
NGUYỄN VĂN BIÊN
* Tập thơ TỪ VẦNG TRĂNG MƯỜI SÁU – Cao Xuyên NXB Thanh
niên 2012
Đọc bài nào của Nguyễn Văn Biên cũng đã.....................
Trả lờiXóaRiêng tặng NVB:
Trả lờiXóaTừ vầng trăng mười sáu
Ta xin làm gió mây
Ru đời nhiều tục lụy
Vàng vạc ánh trăng trong
*** *** ***
Thơ là đạo hay đời
Chiều về đây phố vắng
Khung cửa hẹp rã rời
Từ độ ánh trăng tan
*** *** ***
Ừ! Em tuổi mười sáu
Trăng đẹp như tình đầu
Sương ban mai rớt hạt
Nhỏ giọt còn trinh nguyên
*** *** ***
Mơ hoa trăng mười sáu
Mười sáu trăng rất tròn
Nhưng hồn ta nghiệt ngã
Em có biết không em?
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
XóaCám ơn PMH đã ưu ái tặng mình bài thơ. Vầng trăng mười sáu đã cho PMH và chúng ta nhiều cảm xúc...Thơ là "đời" nhưng cũng là "đạo"...ở một nghĩa nào đó trăng sẽ không tan trong tâm tưởng, khi lòng ta luôn có một nụ trăng viên mãn của vầng trăng 16...Đến đây mình lại lan man nhớ đến một tác giả tiền bối là Trần Dzạ Từ cũng có cảm xúc rất đẹp về vầng trăng 16 xin chia sẻ cùng bạn: " Em mười sáu tuổi trăng mười sáu- Mười sáu trăng chờ em biết không...Ta dối lòng ta bao nhiêu lần-Bao nhiêu lần trăng vẩn là trăng- Lòng nhớ lòng thương lòng sắp khóc-Đêm chưa tàn đâu đừng nói năng?" Ở cùng một " tôn giáo" nên dễ gặp nhau là vậy đó dù không cùng thế hệ. Một lần nữa thâm tạ PMH về bài thơ...mong bạn vui và nhớ mãi trăng 16...
Xóa